Luật Biển giúp Việt Nam tranh thủ hậu thuẫn quốc tế về Biển Đông
Ngày 21/06/2012, Quốc hội Việt Nam đã (…) thông qua bộ Luật Biển, gồm 7 chương, 55 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Điểm đặc biệt là chương 1 của bộ luật xác định rõ ràng là “…quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa (…) thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam…” Quyết định của Việt Nam đã tạo ra phản ứng tức tối từ phía Trung Quốc, Bắc Kinh đã lập tức có những động thái cứng rắn nhằm áp đặt các đòi hỏi chủ quyền của họ tại Biển Đông, bất chấp tính chất bị cho là ‘phi lý’ của các biện pháp này.
Gây tranh cãi nhiều nhất là thông báo ngày 23/06 vừa qua của Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc, phân lô vùng biển ngay trong khu vực thềm lục địa ngoài khơi bờ biển miền Trung và miền Nam Việt Nam, rồi mời quốc tế đấu thầu khai thác, kể cả tại những nơi đã được Việt Nam giao cho các tập đoàn ngoại quốc như Exxon của Mỹ hay Gazprom của Nga thăm dò từ trước.
Bên cạnh đó là một loạt hành động hù dọa như cử 4 tàu hải giám xuống tuần tra tại vùng quần đảo Trường Sa nơi Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền với Việt Nam và Philippines, nâng cấp đơn vị quản lý các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa mà họ tự nhận chủ quyền rồi loan báo đặt bộ chỉ huy quân sự ở đơn vị này…
Theo giới phân tích, trong bối cảnh Trung Quốc không ngần ngại dùng thủ đoạn “lấy thịt đè người” để áp đặt các đòi hỏi chủ quyền của họ trên gần như toàn bộ vùng Biển Đông, sự kiện Việt Nam rốt cuộc đã thông qua một bộ Luật Biển, nhấn mạnh quan điểm tuân thủ Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển và chủ trương giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là một bước đi tích cực, có khả năng tranh thủ được hậu thuẫn của quốc tế chống lại các yêu sách “phi lý” của Trung Quốc.
“Luật Biển là công cụ cần thiết nếu vấn đề Biển Đông ra trước tòa án”
Trả lời phỏng vấn của RFI qua thư điện tử, Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia về Biển Đông tại Học viện Quốc phòng Úc (Đại học New South Wales) đặc biệt ghi nhận việc Việt Nam đã lồng Công ước Quốc tế về Luật Biển năm 1982 vào trong Luât Biển quốc gia của mình :
Việc thông qua luật này là một bước phát triển tự nhiên trong chiến lược biển của Việt Nam đến năm 2020. Hiện nay, văn bản của Luật Biển chưa được công bố, tuy nhiên, những tuyên bố của các quan chức Việt Nam cho thấy rằng Luật Biển này kết hợp luật quốc tế, Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển, vào pháp luật trong nước. Bộ luật này quy định cụ thể thẩm quyền (của Việt Nam) đối với các vùng biển khác nhau : nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, hải đảo và quần đảo.
Việt Nam chưa hề chính thức thông qua một bộ Luật Biển nào. Trước đây, có những tài liệu tham khảo về thẩm quyền hàng hải của Việt Nam tản mác trong các văn bản pháp quy khác nhau. Nhưng đây là lần đầu tiên mà Việt Nam đã làm rõ tình trạng pháp lý các vùng biển của mình, bao gồm cả các đảo và đảo đá, cũng như thẩm quyền trên các vùng biển.
Hành động của Việt Nam đã bị Trung Quốc xem là cực kỳ khiêu khích, bằng chứng là Tổng công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc CNOOC đã đưa ra đấu thầu 9 lô thăm dò nằm bên trong vùng biển thuộc tấm bản đồ 9 đường gián đoạn của Trung Quốc, nhưng hoàn toàn ở trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Trung Quốc đã xem việc thông qua Luật Biển là một hành động khiêu khích bởi vì các nhà ngoại giao của họ đã liên tục gây áp lực đối với Việt Nam để đừng tiến hành việc phê chuẩn.
Do vậy, Trung Quốc có rất nhiều thời gian để chuẩn bị phản công. Việc Trung Quốc sử dụng một công ty dầu khí Nhà nước để phản ứng rất đáng chú ý vì họ làm cho vấn đề trở thành vừa pháp lý vừa thương mại.
Việc thông qua Luật Biển hoàn toàn phù hợp với chính sách hai hướng của Việt Nam – đối tác (tức là hợp tác) và đối tượng (tức là đấu tranh). Việt Nam phải đấu tranh để duy trì chủ quyền quốc gia.
Đối với Giáo sư Thayer, Luật Biển được thông qua sẽ cho phép Việt Nam dễ dàng cầu viện quốc tế trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc tại Biển Đông khi cần thiết.
Bộ luật này một công cụ cần thiết cho Việt Nam nếu Việt Nam quyết định đưa tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông với Trung Quốc ra trọng tài quốc tế để phân xử. Các tòa án quốc tế thường xem xét các tuyên bố chủ quyền trên cơ sở quá trình chiếm cứ và quản lý liên tục. Sau khi ban hành Luật Biển, giờ đây Việt Nam phải tìm cách bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền.
Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển bên trong tấm bản đồ hình chữ U của họ. Tình trạng này có thể có khả năng bùng nổ nếu Trung Quốc cố khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, hoặc nếu Trung Quốc ngăn chặn các hoạt động thương mại trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà Bắc Kinh cho là thuộc chủ quyền của họ.
Trung Quốc đã tính toán sai lầm với hành động của CNOOC
Dù hơi bị bất ngờ trước động thái của Việt Nam trong việc thông qua bộ Luật Biển vào lúc này, giáo sư Thayer ghi nhận là rất có thể thời điểm hai tuần trước Hội nghị ASEAN tại Phnom Penh, nơi hồ sơ Biển Đông dứt khoát được gợi lên là động cơ thúc đẩy việc này.
Tôi bị bất ngờ vì không thấy bất kỳ điều gì liên quan đến Luật Biển trong chương trình làm việc của khóa họp Quốc hội vừa kết thúc. Quốc hội Việt Nam đã xem xét Luật Biển này từ năm 1998.
Thực tế kể trên đã đặt ra câu hỏi về thời điểm thông qua bộ luật đó. Có vẻ như là Luật Biển đã được phê duyệt để tăng cường cơ sở pháp lý cho Việt Nam một khi các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ Bản Tuyên bố về Ứng xử của các bên tại Biển Đông DOC được thực hiện, cũng như trong trường hợp một bộ Quy tắc Ứng xử tại Biển Đông được chấp thuận.
Theo tôi, động cơ thúc đẩy Việt Nam nhanh chóng thông qua bộ luật này là nhằm tăng cường cơ sở pháp lý của tuyên bố chủ quyền của mình, trong khuôn khổ các cuộc đàm phán để thực thi bản tuyên bố ứng xử DOC và khả năng thông qua bộ Quy tắc Ứng xử.
Vào những năm 2000 – 2002, các nước ASEAN và Trung Quốc đã không thỏa thuận được về phạm vi khu vực áp dung các quy tắc và như vây bộ Quy tắc Ứng xử COC dự trù ban đầu không thành công và một bản tuyên bố về các quý tắc ứng xử DOC yếu hơn đã được thông qua. Giờ đây, Việt Nam đã củng cố tuyên bố chủ quyền của mình băng cách gộp các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào lãnh thổ của mình.
Về phần Hoa Kỳ, họ sẽ không trực tiếp can dự tham gia vào tranh chấp pháp lý. Việt Nam cũng không dự đoán được phản ứng của Trung Quốc. Tập đoàn CNOOC đã đem ra mời thầu cả khu vực nơi ExonMobile đang hoạt động. Mỹ vẫn luôn luôn thêm phần “thương mại không bị cản trở” vào phạm vi lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ trong việc duy trì quyền tự do hàng hải và quá cảnh không phận.
Mặt khác,Trung Quốc đã liên tục lập luận rằng sự can dự của Mỹ chỉ làm cho Việt Nam và Philippines mạnh dạn hơn trong việc đương cự với Trung Quốc. Các quan chức Trung Quốc cũng có thể kết luận rằng Việt Nam đã mượn uy Hoa Kỳ, và hành động ngay sau khi được Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Panetta ghé thăm.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN ARF, Trung Quốc đã tính toán sai lầm. Hành động của CNOOC cộng thêm với việc 4 chiếc tàu Hải giám được cử xuống Biển Đông, sẽ chỉ làm cho vấn đề này được đưa ra tại cuộc họp ARF trong tháng này.
Hành động của Trung Quốc như vậy có thể bị phản tác dụng nếu hệ quả là làm cho các nước ASEAN quyết tâm hơn trong việc đàm phán một bộ quy tắc ứng xử mang tính chất ràng buộc chặt chẽ hơn.
Về phản ứng “dữ dội” của Trung Quốc trước việc Việt Nam thông qua Luật Biển, cũng như lời đe dọa của truyền thông nhà nước Trung Quốc như tờ Hoàn cầu Thời báo Global Times chẳng hạn – đã kêu gọi “dạy cho Việt Nam một bài học”, Giáo sư Thayer phân tích :
Các phương tiện truyền thông Trung Quốc thường xuyên có ngôn từ hăm dọa dao to búa lớn và cực đoan. Phần lớn các lời lẽ này chỉ phản ánh thứ chủ nghĩa dân tộc quá khích. Hoàn cầu Thời báo Global Times chẳng khác gì một con chó Rottweiler dữ dằn của chế độ, một con chó giữ nhà ác hiểm. Muốn dự đoán phản ứng thực thụ của Trung Quốc thì phải xem các tuyên bố của những người phát ngôn chính thức và quan chức cấp cao.
Thông tin báo chí hiện đang cho thấy là sự thay đổi quyền lực trong giới lãnh đạo Trung Quốc đang gây chia rẽ nội bộ. Đó là cơ hội để khuyến khích các hành vi hung hăng tại vùng Biển Đông. Thái độ hiếu chiến của Bắc Kinh không đơn thuần là phản ứng trước việc Việt Nam thông qua Luật Biển, mà còn là phản ứng trước thái độ cứng rắn của Philippines cũng như quyết định của chính quyền Mỹ Obama là tái cân bằng lực lượng qua khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Có thể là Trung Quốc đã cho rằng tình trạng chia rẽ lộn xộn trong ASEAN và tình hình Mỹ đang bận bầu cử, là cơ hội để họ hành động quyết đoán hơn.
Giáo sư Ngô Vĩnh Long: Luật Biển ra đời đúng thời điểm và hợp thời cơ
Cùng một quan điểm với ông Thayer, Giáo sư Ngô Vĩnh Long trường Đại học Maine (Hoa Kỳ), một người thường xuyên theo dõi tình hình Biển Đông, cho rằng việc Việt Nam thông qua Luật Biển vào lúc này “vừa đúng thời điểm, vừa hợp thời cơ”.
Dù ghi nhận một số thiếu sót trong bộ luật, giáo sư Long cho rằng văn kiện này là một bước tiến mới của Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại các đòi hỏi chủ quyền vô lý của Trung Quốc tại Biển Đông, giúp Việt Nam tranh thủ thêm được sự ủng hộ của quốc tế.
“Theo tôi, ý nghĩa của sự kiện này (việc thông qua Luật Biển) vừa đúng thời điểm, vừa hợp thời cơ để vận động sự ủng hộ ở quốc nội và quốc ngoại, về vấn đề Biển Đông và an ninh cho Việt Nam nói riêng và toàn khu vực nói chung.
Về đối ngoại thì sẽ có cuộc họp của các ngoại trưởng ASEAN, và vấn đề Biển Đông sẽ được đưa ra bàn bạc. Luật Biển Việt Nam ra vào lúc này, trong đó Việt Nam nhấn mạnh việc tuân thủ Công ước về Luật Biển của Liên Hiệp Quốc và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, là một thông điệp quan trọng của Việt Nam đối với luật pháp và an ninh quốc tế…”
Nguồn: Theo RFI, Thứ hai 02 tháng bảy 2012